Tôi Trở Về Nh
Nhân dịp ngày lễ Logsar, tức ngày lễ đầu năm của Tây Tạng, nhà nhà đều quét
dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng lịch sự. Ngày rằm tháng riêng, Ðức
Đạt Lai Lạt Ma xuất hành đi lễ bái ở ngôi đền Jo Kang. Khi cuộc lễ chấm dứt,
ngài bắt đầu đi diễn hành một vòng lớn trên con đường Barkhor (tức con đường
đi vòng quanh ngôi đền Jo Kang và dinh Quốc Hội), đi ngang qua trước chợ và
đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễn hành kết thúc, sự trang nghiêm,
trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa, hưởng lạc.
Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đã thi hành xong bổn phận
đối với các đấng Thần Minh, thì giờ phút ăn chơi, tiêu khiển đã diểm. Trên
những đài từ mười đến mười lăm thước bề cao, người ta đặt những mô hình nổi
khổng lồ đúc bằng bơ có tô màu, để triển lãm những cảnh tượng huyền thoại
rút trong các kinh thánh. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng chân lại để chiêm ngưỡng
trước mỗi mỹ phẩm trình bày và ban giải thưởng hàng năm cho những tác phẩm
khéo nhất. Những giải thưởng này sẽ được chuyển giao cho các tu viện đã
triển lãm những mỹ phẩm ưu tú.
Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích chơi môn giải trí này, mà chúng
tôi cho là ngây ngô và phiền phức, giống như những cuộc đua ngựa không người
cưỡi trên vùng đồng bằng Lhassa. Cuộc diễn hành những pho tượng khổng lồ của
các nhân vật Thần Thoại làm cho chúng tôi thích thú hơn. Những pho tượng này
gồm một cái sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm cái thân mình, bên trong ruột
trống rỗng, có gắn một cái đầu rất lớn làm theo một kiểu rất tự nhiên. Bên
trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt, có gắn những ngọc đèn bơ; ánh đèn
rung rinh lập lòe làm cho cặp mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động.
Những sư sãi cao lớn lực lưỡng, chân đi trên hai cây cà khêu bề cao ba
thước, chui vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễn hành như những
người khổng lồ. Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai nạn dị kỳ. Có khi
một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường lộ, trong khi đó, những kẻ
bất hạnh này đành phải đánh đu giữ thăng bằng trên một chân; có khi cả hai
cây cà khêu đều trượt tới vì đường trơn trợt. Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị
rung chuyển quá mạnh và lật đổ, ngọn lửa bắt cháy thiêu pho tượng, thì đó
mới là một thảm kịch thực sự!
Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề cử mang pho
tượng đức Phật, bề cao đo tới tám thước tây. Trong khi tôi đi cà khêu bên
trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện vào chân tôi, và những con mọt
bay vần vũ chung quanh mình tôi vì bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được
lấy từ trong kho ra. Khi tôi vừa bước đi vài bước khập khễnh trên hai cây cà
khêu, bụi trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà
mỗi lần hắt hơi đều hăm dọa sự thăng bằng của tôi một cách rất nguy hiểm.
Mỗi lần hắt hơi làm thân hình tôi rung chuyển, lại làm cho tình trạng bất ổn
của tôi càng trầm trọng thêm vì những ngọn đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn
những giọt bơ nóng chảy xuống cái sọ dừa cạo trọc của tôi, và... vì cạo trọc
nên nó càng "Nhậy cảm" hơn. Khi trời nóng bức một cách kinh khủng, tôi lại
bị ngộp thở muốn đứng tim vì hít phải hàng mùi lụa cũ, mốc meo của chiếc áo
cà sa bị cất giữ trong kho đã lâu ngày. Tôi bị vây khốn bởi những đám mối
mọt bay vần vũ như điên chung quanh tôi, tôi bị phỏng rát da đầu vì bơ nóng
của các ngọn đèn; tình cảnh của tôi lúc ấy vô cùng bi đát! Cái lỗ nhỏ khoét
ở giữa thân mình pho tượng để nhìn ra ngoài lại không ngang với cặp mắt tôi.
Thành thử, tôi chỉ nhìn thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước tôi, và xét
về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, thì đủ biết rằng kẻ bất hạnh này
cũng không thoải mái sung sướng gì hơn tôi lúc ấy! Nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma
đang nhìn chúng tôi, và chúng tôi phải tiếp tục diễn hành trong tìng trạng
đó, vừa bị ngộp thở vừa bị bơ đổ nóng đến hết phân nửa cái sọ dừa của tôi!
Chắc hẳn là tôi đã sút mất vài ký lô trong ngày hôm đó!
Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi:
- Lâm Bá, con đã trình diễn rất khéo. Con có thể trở nên một tài tử thiện
nghệ!
Tôi phải giữ kín không thố lộ cho ông ta biết rằng những cử chỉ mà tôi đã
làm cho ông ta thích thú, thật ra là hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi, và kể
từ đó, tôi không bao giờ đi diễn hành trong pho tượng nữa!
Khỏng năm sáu tháng sau cuộc "Trình Diễn" đó, một cơn giông bão thình lình
nổi dậy, cuốn hết những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc ấy tôi cùng với một
thiếu niên sơ cơ đang ngồi trên nóc tu viện và sắp đặt lại những viên ngói
để sửa chữa chỗ bị dột. Cơn giông làm tôi bị hất rơi xuống một nóc nhà khác
độ sáu bảy thước thấp hơn, từ đó cơn gió thổi mạnh, cuốn tôi đi mãi, làm cho
tôi lại rơi một lần nữa xuống đất gần đường Lingkhor từ một bề cao độ chừng
một trăm thước. Ở phía dưới là một vùng ao đầm, ẩm thấp, tôi rơi xuống một
vũng nước sâu, nước cao ngập khỏi đầu. Tai nạn này làm cho tôi sợ hãi mất
bình tĩnh, khi tôi cố gắng ngoi lên khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói
ở khuỷu tay và ở chả vai bên trái. Tôi bò trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và
lết đi một cách khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt. Bị té
đau, không đủ sáng suốt để suy nghĩ gì nữa, tôi chỉ có một ý nghĩ: “Trở về
tu viện càng sớm càng hay”. Như một người mù, tôi bước tới một cách chập
choạng, mỗi bước đi lại vấp ngã; dọc đường tôi gặp những sư sãi vừa chạy tới
để xem kết quả tai nạn đã xảy ra cho tôi và đứa trẻ kia. Nhưng không may đứa
trẻ này đã chết vì té xuống những chỗ có tảng đá gồ ghề.
Các sư sãi khiêng tôi vào phòng. Sư phụ tôi khám nghiệm những thương tích
trên người tôi rồi nói:
- Ồ, tội nghiệp cho những trẻ nhỏ này! Đáng lẽ người ta không nên để chúng
ra ngoài khi thời tiết như vầy!
Kế đó, người nhìn tôi vào tận mắt:
- Lâm Bá, con hỡi! Một cánh tay và một xương đòn gánh bị gẫy... Phải nắn
xương lại tức khắc. Con sẽ đau đớn, nhưng thầy sẽ làm cách nào để cho con
chỉ đau tối thiểu mà thôi.
Sư phụ vừa nói, và trước khi tôi ý thức được việc gì xảy ra, người đã nắn
lại cái xương đòn gánh bị trặt và đặt lại cho đúng khớp. Khi Sư Phụ nắn chỗ
khuỷu tay bị gẫy, tôi cảm thấy đau hơn nhưng không lâu, vì người đã mau ráp
cái xương bị trặt vào đúng khớp của nó. Ngày đó, tôi nằm yên một chỗ không
thể cử động.
Qua ngày hôm sau, Sư Phụ đến gặp tôi và nói:
- Con đã bớt đau và có thể tiếp tục sự học, không nên bê trễ. Chúng ta sẽ
làm việc chung với nhau ngay trong phòng này. Cũng như tất cả mọi người, con
cảm thấy e dè khi phải học những đề tài mới... Thầy sẽ giúp con bớt e dè
bằng phương pháp thôi miên.
Sư Phụ đóng các cửa sổ, và gian phòng đắm chìm trong bóng tối.
Chỉ có những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư Phụ bèn đặt tôi vào
trạng thái giấc ngủ thôi miên.
Tôi đã ngủ thiếp đi trong nhiều giờ. Khi tôi thức tỉnh, tôi nhìn thấy xuyên
qua cánh cửa sổ mở, cảnh vật ban đêm hiện ra chập chờn trong thung lũng.
Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ chiếu lập lòe ở các cửa sổ trong điện
Potala và ở chung quanh các vách tường rào: Người sư sãi có phận sự túc trực
ban đêm đang đi canh tuần. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở dưới chân đồi, thành
phố Lhassa đang vươn mình trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, Sư Phụ tôi
bước vào và nói:
- À, con đã tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đã nhận thấy cõi Trung Giới
vui đẹp đến nỗi con muốn kéo dài cuộc ngao du trên đó. Thầy nghĩ bây giờ
chắc con đã đói, phải chăng?
Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật tình tôi đang đói bụng. Người ta dọn ra
cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống lấy sức, Sư Phụ nói với
tôi:
- Trong trường hợp thông thường, thì có lẽ con đã chết vì tai nạn vừa qua,
nhưng khoa chiêm tinh đã nói rằng cuộc đời con chỉ kết thúc trong nhiều năm
sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của những người mọi da đỏ (Mỹ Quốc). Trong
giờ phút này, các sư sãi đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ thiếu nhi vừa từ
giã chúng ta. Nó đã chết ngay trong lúc bị tai nạn.
Những người bước qua cõi giới bên kia cửa tử làm cho tôi mong ước số phận
của họ. Kinh nghiệm của tôi đã giúp cho tôi nhận định rằng những cuộc ngao
du trên cõi Trung Giới rất là thú vị. Nhưng tôi nhớ lại rằng tuy không ai
thích cái trường học ở thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi...
Cuộc đời trên thế gian là gì, nếu không phải là một trường học? Và đó là một
trường học rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: "Trong trường học này, tôi đã bị gẫy
mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục học nữa!"
Trong hai tuần lễ, sự học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết hơn lúc bình
thường. Người ta nói rằng đó là để cho tôi quên đi, đừng nghĩ đến cái xương
gẫy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những chỗ trặt xương đã được hàn gắn lại
như cũ, nhưng tôi cảm thấy khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn còn thấy đau. Một
buổi sáng, vừa bước vào phòng, tôi thấy Minh Gia Đại Đức đang đọc một bức
thơ. Sư Phụ ngước mắt nhìn tôi và nói:
- Lâm Bá, chúng ta có một gói dược thảo để gởi tặng cho thân mẫu của con.
Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng ngày mai, và con có thể ở lại nhà trọn
ngày.
Tôi đáp:
- Con chắc rằng cha con không muốn gặp con, vì ông ấy không nhìn con một hôm
nọ, khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu thang của điện Potala.
- Đó là một việc rất thông thường. Cha con biết con vừa có cái hân hạnh được
đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến, bởi lẽ đó, người không thể nói chuyện với con
trong khi vắng mặt Thầy, vì chính đấng Khôn Lường đã đích thân phú thác gửi
gấm con cho Thầy rồi.
Sư Phụ nhìn tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói:
- Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đã đi Gyangtsé trong
vài ngày.
Qua ngày hôm sau, Sư Phụ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân và nói:
- Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề, và điều đó rất
quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một khăn choàng cổ, con đừng quên
rằng con là một vị Lạt Ma, là người phải tôn trọng mọi quy tắc. Trước kia,
con đi bộ đến đây. Bây giờ, con hãy cưỡi một trong những con ngựa bạch quý
nhất của tu viện để trở về nhà. Con hãy cưỡi con ngựa của thầy, nó đang cần
phải vận động.
Sư Phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một cái khăn choàng
bằng lụa theo truyền thống để tỏ lòng cung kính. Tôi nhìn kỹ cái khăn choàng
một cách hoài nghi, vì không nên để cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà
biếu. Sau cùng, tôi quyết định cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra
trước khi tới nhà cha mẹ tôi.
Tôi giục ngựa xuống chân đồi và noi theo con đường Lingkhor như thường lệ.
Sau khi đi độ nửa giờ, trải qua nhiều con đường ở ngoại ô thành phố, tôi
nhìn thấy ở đằng xa cái cổng lớn của nhà tôi.
Khi các gia nô nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi cho ngựa đi qua cổng
để vào tận sân nhà với một hy vọng thầm kín rằng tôi sẽ không bị té rớt
xuống yên ngựa. Rất may mắn thay, một người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây
cương trong khi tôi nhảy xuống đất.
Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi: Chúng tôi bèn trao đổi khăn choàng một
cách lễ nghi trịnh trọng. Y nói: "Thưa ngài Lạt Ma y sĩ và đại gia công tử,
xin công tử hãy ban ân huệ cho gia đình và toàn thể nhân viên cư ngụ trong
nhà này."
Tôi đáp:
- Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức khỏe trường cửu.
- Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lịnh cho tôi đưa công tử vào.
Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn đường (làm như tôi
không biết đường đi một mình), tôi rút cái khăn choàng ra và phủ ngoài cái
bao da một cách cẩn thận. Chúng tôi bước lên lầu trên để vào phòng khách của
mẹ tôi. Tôi thầm nghĩ: "Người ta không bao giờ để cho tôi đến đây khi tôi
còn nhỏ." Nhưng ý nghĩ đó liền nhường chỗ cho ý muốn mãnh liệt là chạy vắt
giò lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng phòng khách của mẹ
tôi đầy những khách... đàn bà!
Trong khi tôi còn đang lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, thì mẹ tôi đã bước
đến gần và tiếp đón tôi trước:
- Đại Ðức Lạt Ma, hỡi con, đấng Khôn Lường đã ban danh dự cho con rất nhiều.
Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được nghe chính miệng con kể lại cái
vinh dự ấy.
Tôi đáp:
- Thưa mẫu thân, những quy luật trong dòng tu ngăn cấm con không được tiết
lộ những gì ngài đã nói với con. Minh Gia Đại Đức có truyền đem dâng mẹ bao
dược thảo này cùng với một khăn choàng bằng lụa.
- Hỡi con yêu quý, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng xa xôi để được nghe
chuyện trong cung điện của đấng Thậm Thâm và nghe nói chuyện về ngài. Phải
chăng ngài vẫn thường xem những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử
dụng một thứ kiếng có thể xuyên qua vách tường nhà?
Tôi đáp:
- Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt Ma sĩ nghèo, vừa mới xuống núi, và thật
là không xứng đáng để nói chuyện về đức Chưởng Giáo của dòng tu chúng con.
Con chỉ là một kẻ chuyển giao thư tín mà thôi.
Lúc ấy, một thiếu phụ bước đến gần tôi và nói:
- Đại Đức Lạt Ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây!
Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, vì chị tôi đã trở nên một thiếu nữ dậy
thì, nở nang trọn vẹn và... hấp dẫn. Tôi cảm thấy e dè sợ hãi. Tất cả là tám
hay chín vị phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá nhiều đối với tôi. Những người
nam phái thì tôi đã biết cách xử thế đối với họ còn nữ giới thì tôi chịu
thua! Họ cứ nhìn tôi với những cặp mắt tò mò, dường như muốn ăn tươi nuốt
sống tôi. Tôi chỉ còn có một giải pháp là thoát thân. Tôi nói:
- Thưa mẫu thân, con đã chuyển giao thông điệp và quà tặng của Sư Phụ con
xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận hằng ngày. Tay con vẫn còn
đau và con có nhiều việc phải làm.
Nói xong, tôi chào từ giã tất cả các quan khách rồi quay lưng đi mau với một
tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. Vì quản gia đã trở lại văn phòng của
người, vì vậy một người giữ ngựa dắt ngựa đến cho tôi. Tôi nói:
- Anh hãy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, vì tôi mới bị gãy xương ở tay và vai,
và tôi không thể lên yên ngựa một mình.
Người giữ cửa mở cổng đưa tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất hiện trên bao
lơn và nhìn theo sau lưng tôi.
Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ nhìn tôi vào
tận mắt và hỏi:
- Lâm Bá, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao?
Tôi đáp:
- Bạch Sư Phụ, ở nhà, con gặp một toán phụ nữ muốn nghe chuyện đấng Thậm
Thâm và muốn biết những gì ngài đã nói với con. Con đáp rằng trong dòng tu
của chúng ta nghiêm cấm con tiết lộ cho họ nghe bất cứ chuyện gì. Và con đã
chạy thoát thân... Sư Phụ hãy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều
trố mắt nhìn con như cọp rình mồi!
Sư Phụ tôi phát tiếng cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự vui vẻ của Sư Phụ
thì người lại càng cười giòn giã hơn nữa. Người nói:
- Đấng Khôn Lường muốn biết con có muốn ở lại tu viện suốt đời hay con còn
nghĩ đến việc trở về với gia đình.
Đời sống tu viện đã làm đảo lộn mọi quan niệm của chúng tôi về đời sống xã
hội; hồi đó tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ lùng mà cho đến bây giờ
tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp:
- Gia đình con là ở đây. Con không muốn trở về nhà. Tất cả những bà mệnh phụ
ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ trơn bóng làm cho con phát
ngấy... Họ nhìn con với một vẻ mặt lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể
ở làng Sho trước một con trừu trúng giải nhất trong một cuộc triển lãm nông
nghiệp! Họ thốt ra những tiếng kêu chát chúa và những màu sắc trên thể vía
của họ thật là... dễ sợ! Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng bảo con trở về nhà
nữa!
Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng đức Đạt Lai Lạt
Ma rất chú ý đến tôi, và đã quyết định cho tôi trở về nhà ở một hai ngày mỗi
khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân trong gia đình.
|